Đức Maria - Mẹ Thiên Chúa, Môn đệ, Nhà giáo dục của Chúa Kitô và các Kitô hữu trong suy tư thần học hệ thống
1. Một vài lời dẫn về phương pháp
Những yếu tố có liên quan với đề tài này rất phong phú: Đức Maria, người mẹ, người môn đệ, nhà giáo dục của Chúa Kitô và của các Kitô hữu. Chúng ta thử chất vấn: với Đức Maria, việc giáo dục Chúa Giêsu, trở nên môn đệ và việc bước theo Người Con thần linh của Mẹ muốn nói lên điều gì? Đối với Đức Maria, trách nhiệm làm mẹ và là nhà giáo dục của các Kitô hữu có ý nghĩa gì?
Đề tài được phân chia theo 2 phần: mối tương quan mang tính mẫu tử_giáo dục giữa “Đức Maria – Chúa Giêsu” và giữa “Đức Maria – Giáo Hội (các kitô hữu)”.
Để tiến hành tốt hơn nhiệm vụ này của phương pháp thần học hôm nay – nhất là sau sự canh tân của công đồng Vaticano II, được đẩy mạnh từ Sắc lệnh Đào tạo Linh mục s.16 (Optatam totius), với những lối mở trong Tông huấn Marialis cultus của Đức Thánh Cha Phaolo VI, Tông huấn về việc đào tạo Linh mục Pastores dabo vobis (n.54) của ĐTC Gioan Phaolo II và lá thư của Học Viện Giáo Hoàng Quốc Tế về Đức Maria - PAMI1 - đòi hỏi không chỉ chú trọng đến việc lắng nghe Kinh Thánh và Truyền Thống của Giáo Hội (huấn quyền, các giáo phụ, phụng vụ, các luồng tư tưởng thần học lớn, mục vụ, truyền giáo, giáo lý, thiêng liêng học), mà còn phải chú ý đến những khoa học nhân văn (tâm lý học, xã hội học, lịch sử, nghệ thuật, nhân học văn hóa, triết học,…).
Ngoài ra, đề tài về nền giáo dục nhân bản của Chúa Giêsu bao gồm, một mặt là việc tái nhận biết sự trưởng thành nhân bản đích thực của Ngài, không thể từ chối được sự lệ thuộc vào những điều kiện, hoàn cảnh và những ảnh hưởng xuất phát từ phía gia đình của Ngài, từ môi trường sống, văn hóa; mặt khác là việc Ngài tiếp nhận những “nhận thức” có liên quan đến căn tính làm con (con của Cha trên trời) và liên quan đến sứ mệnh cứu rỗi của Ngài (là Đấng Messia và Đấng Cứu Độ trần gian), thật sự không dễ để nhận ra “từ bên ngoài”, nghĩa là từ nền giáo dục “tôn giáo” Ngài đã nhận được.2
Ngoài những câu hỏi khó liên quan đến Đức Maria và việc giáo dục của Chúa Giêsu, đề tài lấy điểm này làm điểm quan trọng và cơ bản vì chiều kích Maria trong sự hiện hữu kitô giáo. Nó liên quan đến sự trưởng thành kitô giáo của các tín hữu, không chỉ trong những thể hiện bề ngoài mang nét truyền thống của tôn giáo quần chúng. Nhưng trên hết, trong sự nghiêm túc hơn và không thể loại bỏ những nhịp của sự tăng trưởng thiêng liêng, có được từ hành trình của chu kỳ năm phụng vụ và giáo lý-mục vụ. Cả hai cách diễn tả ấy phải là nền tảng có liên quan hỗ tương và tác động lẫn nhau, để một mặt không có nguy cơ tạo nên một đức tin cảm nhận được, nhưng nghèo về động lực, và mặt khác để không cảm nghiệm một kitô giáo tách ra khỏi mầu nhiệm nhập thể và chỉ có ý niệm thuần túy.
2. Chúa Giêsu đã học hỏi
Chúng ta có thể nói ngay rằng Chúa Giêsu đã học. Ngài không chỉ học từ khi còn nhỏ và học nơi Mẹ của Ngài. Việc “sinh bởi người phụ nữ” (cf Gl 4,4), mà sau đó, những bản kinh tin kính và những định nghĩa về niềm tin có nhiều trình bày chi tiết và chính xác hơn như là “sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời và sinh bởi Đức Maria trong lịch sử khi thời gian tới hồi viên mãn”,3 diễn tả nhân tính thật sự của Chúa Giêsu, được bênh vực một cách mạnh mẽ bởi lời công bố long trọng của các công đồng: công đồng Costantinopoli I (tính toàn vẹn của nhân tính của Đức Giêsu), Costantinopoli III (ý chí nhân loại của Chúa Giêsu) và CĐ Niceno II (thuyết duy thực của việc nhập thể), và còn lại , đặt nền trên Kinh Thánh, trong đó xác định rằng Hài Nhi Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta (cf Lc 2,52).
Một ví dụ cụ thể, sự hiểu biết chính xác về phần Chúa Giêsu, lúc ấy đã bước vào giai đoạn thực thi sứ mệnh, có một sự kiện được thánh sử Luca kể lại, ngay từ phần mở đầu, thánh sử đã báo cho biết trước rằng có ý định tuân theo tính thực tế của các sự kiện. Giai thoại này gần đây đã được gợi lại trong một bứa tranh mosaico ở nhà nguyện Redemptoris Mater, đã được khánh thành tại Vatican vào năm 1999.
Trên bức tường, gọi là Mầu Nhiệm Nhập Thể, các khía cạnh khác nhau của bức tranh tạo nên một sự tổng hợp hội họa vĩ đại của mầu nhiệm Đức Kitô, từ lúc sinh ra cho đến khi sống lại.Có hai quang cảnh tạo cảm xúc cao độ: phía bên phải, là người phụ nữ tội lỗi vào nhà ông Simon - một người Pharisêu, cô ta quì dưới chân Chúa Giêsu, lấy dầu thơm mà rửa chân Ngài (cf Lc 7,36-50), và phía bên trái, trong một sự tương xứng rất chính xác với bức họa bên phải, có Chúa Giêsu trong cùng một hành động như người phụ nữ kia, Ngài rửa chân cho tông đồ Phêrô. Với Chúa Giêsu, Ngài rất đề cao và trân trọng hành động yêu mến nồng nàn và cảm nhận được của người phụ nữ, mà Ngài đã lập lại nó và thực hiện cho các môn đệ của Ngài – là những người mà Ngài muốn trao gửi lại cho họ sứ điệp của phục vụ, khiêm tốn và tình yêu chân thật.
Vậy nếu Chúa Giêsu đã học từ một người phụ nữ tội lỗi, thì có lý do hơn khi nói rằng Ngài đã học từ người mẹ thánh thiện của Ngài. Bản tính nhân loại chân thật và không vương tội lỗi của Chúa Giêsu không làm Ngài xa tránh hay trở nên xa lạ với gia đình nhân loại. Ngược lại, như Adam mới, Ngài trả lại cho nhân tính căn tính chân thật của nó. Bởi điều này mà tất cả những nghiên cứu tâm lý học và phân tâm học trên nhân tính của Chúa Giêsu (Hanna Wolff, Eugen Drewermann…), họ đã làm nổi bật nơi Ngài một nhân tính hài hòa, quân bình, toàn vẹn, mẫu mực, và là một nhà tâm lý trị liệu thật sự.4 Nhất là với khoa học thực nghiệm thật sự vẫn tiếp tục và với những sự mới mẻ đáng ngạc nhiên họ khẳng định không phải là một sự giả dối những giọt nước mắt Ngài khóc Lazaro đã chết, khóc cảm thương cho dân tộc mình, lời khiển trách tông đồ Phêrô, việc chọn lựa các tông đồ, và gần như tất cả những khó khăn trong niềm tin đối với những người Ngài gặp gỡ.
3. Đức Maria giáo dục Chúa Giêsu
Như vậy, Chúa Giêsu đã học từ nơi Đức Maria ngay từ giây phút mà mỗi người mẹ - là nhà giáo dục - sinh ra đứa con của mình. Hệ quả là kinh nghiệm của tình mẫu tử có ý nghĩa để Đức Maria thực hiện việc đào luyện Chúa Giêsu. Nhân tính của Con Thiên Chúa làm người tất cả nhờ Đức Maria, cũng như thế, việc giáo dục nhân bản toàn vẹn của Ngài. Ở đây muốn nói đến một hoàn cảnh đáng được đào sâu, và nếu chúng ta có tìm thấy một ‘trường hợp’ đặt biệt nhất, thì đó vẫn là Đức Giêsu Kitô - là người thật và là Thiên Chúa thật.
Chúng ta tự hỏi rằng: đâu là mối tương quan của Đức Maria với việc giáo dục Chúa Giêsu, trong cách thức để làm cho Hài Nhi Giêsu lớn lên “ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,52)? Một cách chính xác, đâu là lãnh vực Mẹ Maria phải hành động như là mẹ và nhà giáo dục?
Chắn chắn rằng mỗi hành động giáo dục không bao giờ là một chiều. Như vậy có thể giả thiết một sự ảnh hưởng kép, đó là mối tương quan giáo dục hỗ tương giữa Đức Giêsu và Mẹ Maria. Một cách chính xác hơn, trong trường hợp của chúng ta, có thể giả thiết rằng Đức Maria đã hướng dẫn Đức Giêsu đến sự phát triển và trưởng thành trong nhân tính của Ngài, đến sự hòa nhập vào môi trường và nền văn hóa nơi Ngài sống.
Mặt khác, chúng ta cũng phải xác nhận rằng Đức Giêsu đã đồng hành với người mẹ của mình đến sự hiểu biết mầu nhiệm thần linh của Ngài. Ngược lại, không phải ngạc nhiên việc Chúa Giêsu, ngay cả khi còn rất nhỏ có thể là thầy của mẹ mình. Để chỉ ra sự nhận thức mà ngay khi còn nhỏ, từ khi trí khôn nhân loại bắt đầu nhận biết, trẻ Giêsu đã biết về chính mình và về sứ mệnh của mình. Bức tranh icone phong cách bizantina phát họa hình ảnh Hài Nhi Giêsu được trang trí bằng một chỏm hói trên đỉnh đầu, để nói lên rằng trẻ này trong thực tế là sự Khôn Ngoan vĩnh cửu được sinh ra bởi Thiên Chúa Ba Ngôi.
Sự ảnh hưởng của Đức Maria trên Chúa Giêsu có thể tóm lược lại trong một vài xác quyết sau đây. Đức Maria đã yêu mến trẻ Giêu với tất cả trái tim của một người mẹ, được mẹ bao bọc bằng tình yêu, mẹ chở che, chăm sóc, tôn trọng và ước mơ cho Ngài có một tương lai tươi sáng. Đức Maria đã giáo dục trẻ Giêsu bằng việc làm của một người mẹ, bằng sự dâng hiến và quyết tâm bảo vệ con của mình (biến cố trốn sang Ai Cập). Mẹ đã giáo dục trẻ Giêsu bằng cuộc sống nghèo nàn và thanh thản của mẹ, siêng năng và đơn giản, thanh khiết và tràn đầy tình yêu mẫu tử. Mẹ đã giáo dục trẻ Giêsu với tất cả sự tín thác của mẹ nơi Thiên Chúa và với sự sẵn sàng giúp đỡ những ai cần đến bằng cách can thiệp vào, ví dụ ở Cana, Mẹ đã giúp đôi tân hôn. Xin vâng [Fiat], Ngợi khen [Magnificat], Người bảo gì các anh cứ làm theo (Lc 1,38.46; Ga 2,5), đó là ba chương tuyệt vời của sư phạm Maria đối với Người Con.
Ví dụ, lời “Magnificat” (Lc 1, 46-55), hơn là một thánh ca ngợi khen, có thể được giải thích một cách sư phạm như là một cẩm nang giáo dục mà Đức Maria truyền đạt cho trẻ Giêsu. Nếu thánh thi này biểu tỏ những cảm xúc, tâm tình của người trinh nữ mạnh mẽ này, thì những chương trong sư phạm phong cách maria có thể có những hệ quả sau đây: giáo dục cho vinh danh của Thiên Chúa, kinh nghiệm về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những người khèo và khiêm tốn, phục vụ Thiên Chúa trong sự vâng phục của một nữ tỳ.
Ở đây cần đưa ra một xác quyết ngay lập tức. Việc Đức Maria giáo dục trẻ Giêsu đã không thực hiện trong một hoàn cảnh an bình và thư thái, hay vắng bóng những bóng tối và xung đột. Cuộc sống trong sự kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu không xóa bỏ hay miễn trừ cho mẹ bi kịch của hiện hữu con người trong cuộc sống thường ngày, với những niềm vui và trên hết với những khổ đau. Thật vậy, gia đình Thánh gia phải chịu đựng những bách hại, lưu vong, sự khổ đau và cả những hiểu lầm chống đối.
Trong khi giáo dục Con Thiên Chúa, Đức Maria đã hoàn tất một cuộc hành hương thật sự của đức tin, từ khi sinh con cho đến khi Chúa Giêsu sống lại và biến cố Hiện Xuống. Trong khi gợi nhớ lại biến cố tìm con lạc mất trong Đền Thờ, dường như Mẹ còn chưa hiểu được thực tế sâu xa của con của mình – Con Thiên Chúa. Câu trả lời của Chúa Giêsu bắt buộc Mẹ phải “suy gẫm” ngày càng sâu xa hơn mối tương quan của mẹ với Người Con này (Lc 2,19.51).
4. Giáo huấn của Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II
Tất cả những gì chúng ta đã nói đến, được soi sáng một cách chính thức và có uy tín bởi giáo huấn của Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II. Trong bài giáo lý về Đức Maria vào ngày 4/12/1996, với tựa đề “Nhà giáo dục của Con Thiên Chúa”, ĐTC đã xác định rằng mẫu tử tính của Đức Maria không giới hạn chỉ bởi quá trình phát triển sinh học của sự sinh ra, nhưng còn do tất cả những gì mà mỗi người mẹ, mẹ cũng đã trao ban một sự đóng góp chính yếu và cơ bản cho sự lớn lên và phát triển của Đức Giêsu.
“Mẹ Maria, không chỉ là một người phụ nữ đã sinh ra một người con, mà mẹ còn nuôi nấng và giáo dục; thậm chí, chúng ta có thể nói rằng bổn phận giáo dục là linh thiêng, trách nhiệm này là hệ quả tự nhiên của việc sinh con. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa không chỉ bởi vì đã sinh ra Con Thiên Chúa mà còn vì đã đồng hành với Ngài trong hành trình lớn lên của đời sống làm người”.5
Và Chúa Giêsu, như một con người thật, Ngài đã cần đến những nhà giáo dục và trên hết là sự giáo dục của gia đình nhân loại của Ngài. Trong khi dưới quyền của Thánh Giuse và Mẹ Maria (cf Lc 2,51), Chúa Giêsu đã mở ra để đón nhận sự giáo dục của Mẹ Ngài và người cha nuôi hợp pháp của Ngài:
“Những hồng ân đặc biệt mà Thiên Chúa đã ban cách đầy tràn cho Đức Maria, đã làm cho mẹ trở nên có đủ khả năng cách đặc biệt, để có thể đảm nhận và thi hành bổn phận là mẹ và là nhà giáo dục. Trong những hoàn cảnh thực tế hàng ngày, trẻ Giêsu có thể tìm thấy nơi mẹ của Ngài mẫu gương sống động để noi gương bắt chước trong việc sống một tình yêu trọn vẹn dành cho Thiên Chúa và anh chị em”.6
Thánh Giuse cũng đã góp phần cộng tác vào việc đào luyện Chúa Giêsu, khi bắt đầu tập cho Ngài làm công việc nặng nhọc của người thợ mộc, như thế, giúp Ngài từ từ hội nhập vào thế giới công việc và trong đời sống xã hội.
Thật ra không dễ dàng chút nào, từ rất ít những yếu tố được nói đến trong Tin Mừng để hiểu biết và đánh giá được cách chính xác những hành động mang tính sư phạm của Đức Maria đối với con của mình là Đức Giêsu:
“Thật sự, chính Mẹ Maria và Thánh Giuse đã đưa dẫn và dạy dỗ Đức Giêsu những nghi thức thờ phượng theo Do Thái giáo và những điều qui định theo luật Môisê, dạy Ngài cầu nguyện cùng Thiên Chúa của giao ước ngang qua các Thánh vịnh, đưa dẫn vào lịch sử của dân Israel mà trung tâm là cuộc xuất hành ra khỏi đất Ai Cập. Từ nơi Mẹ Maria và Thánh Giuse, Đức Giêsu đã học lui tới Hội đường thường xuyên và thực hiện chuyến hành hương hàng năm lên đền thờ Giêrusalem vào dịp lễ Vượt qua.
Nhìn vào những kết quả, chúng ta có thể suy ra rằng công việc giáo dục của Đức Maria rất sắc bén, sâu xa và đã tìm được trong tâm lý nhân loại của người con một mảnh đất rất phì nhiêu”.7
ĐTC đã nêu lên một vài đặc điểm của bổn phận giáo dục nơi Đức Maria, nó không thể đi ngược lại với bổn phận của những người mẹ khác, và nó làm cho Đức Maria trở nên môn đệ của Người Con hơn nữa:
“Mẹ đã bảo đảm tạo những điều kiện thuận tiện vì nó có thể hiện thực hóa những sự năng động và những giá trị cơ bản cho sự lớn lên, đã được thể hiện trong Người Con. Ví dụ, sự vô tội, không dính dáng vào bất cứ hình thức tội lỗi nào của Đức Giêsu, đòi hỏi nơi Đức Maria một sự định hướng luôn luôn tích cực, với sự loại trừ những sự can thiệp sửa lỗi đối với Đức Giêsu. Ngoài ra, nếu chính Mẹ Maria là người đã đưa đẫn trẻ Giêsu vào văn hóa và truyền thống của dân tộc Israel, thì trong tương lai chính Chúa Giêsu sẽ mạc khải, bắt đầu từ sự kiện tìm thấy Ngài trong Đền Thờ, sự tròn đầy về sự hiểu biết Ngài là Con Thiên Chúa, được gửi đến trần gian để chiếu tỏa sự thật trong thế giới, tuyệt đối tuân theo thánh ý của Chúa Cha. Từ “bà giáo” của Người Con, Đức Maria trở nên người môn đệ khiêm tốn của vị Thầy thần linh do bởi lòng Mẹ sinh ra”.8
5. Chúa Giêsu giáo dục Đức Maria
Với sự giáo dục nhân bản mà Chúa Giêsu nhận từ Đức Maria, cần bổ sung thêm một sự hòa điệu mầu nhiệm nhưng không thiếu thực tế, đó là sự giáo dục của Chúa Giêsu dành cho Mẹ của Ngài. Ngay từ khi còn nhỏ, Chúa Giêsu đã giáo dục Mẹ Maria đến sự hiểu biết mầu nhiệm của sự thuộc về cách trọn vẹn vào Cha trên trời và sứ mệnh cứu rỗi thế giới của Ngài.
Đức Giêsu không chỉ là một bé thơ hay một thiếu niên chỉ để học, nhưng Ngài còn dạy dỗ. Một dấu hiệu chúng ta có được trong Tin mừng thứ ba, trong đó thánh sử Luca kể lại giai thoại tìm lại được Chúa Giêsu trong Đền thờ, lúc ấy đang ngồi giữa các tiến sĩ luật “vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu” (Lc 2,46-47).
Thiếu niên Giêsu không đơn giản là chỉ lắng nghe như một môn đệ, nhưng còn đặt câu hỏi và dạy dỗ khi ngồi giữa các thầy thông luật. Điều này không làm chúng ta quá ngạc nhiên, vì ngay từ khi còn rất trẻ, Salomon đã công bố sự phán xét nổi tiếng của ông (cf 1V 3,16-28), Samuel đã bắt đầu nói tiên tri (1Sm 3,20) và Daniel đã xét xử cách công minh trong trường hợp vụ án bà Susanna (Dan 13,46-64). Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã có sự tự nhận biết về mình hơn những người trẻ được trích dẫn trên đây.
Đức Maria đã ngạc nhiên trước sự việc tìm thấy trẻ Giêsu trong Đền thờ cũng như trước câu trả lời của Ngài: “Cha mẹ không biết rằng con phải làm việc của cha con sao?” (Lc 2,49). Trong việc giáo dục Chúa Giêsu, một cách rõ ràng đã có một sự qui hướng nhất định, đó là từ khi bắt đầu nhận thức, Ngài đã luôn gìn giữ ý thức nhân loại của mình hướng về Chúa Cha. Vì ngoài sự hiệp thông với người mẹ trần thế, ngoài mối tương quan thân thương với người cha nuôi, Chúa Giêsu sống sự hiện hữu trần thế của mình hoàn toàn tập trung nơi cung lòng của Thiên Chúa Cha trên trời, từ nơi đó Ngài lãnh nhận sự linh hứng và mọi hiểu biết.
Ở đây sự lập luận sư phạm trở thành đòi buộc phải cố gắng ở mức cao nhất, mang tính chất thần học và ba ngôi học.
Thật vậy, Chúa Giêsu là Con Một của Chúa Cha, tràn đầy ân sủng và sự thật (cf Gv 1,14). Ngài là Đấng biết Chúa Cha thật sự và là Đấng Mạc Khải của Chúa Cha. “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Gv 1,18). Chúa Con là Ngôi Lời (Logos) thật, Lời trọn vẹn và sau cùng của Chúa Cha: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài. […]Người là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật. Sau khi đã tẩy trừ tội lỗi, Người lên ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời.” (Dt 1,1-3). Trong việc giáo dục Chúa Giêsu có liên quan đến Chúa Cha, từ giây phút mà những lời của Chúa Giêsu là tiếng vang của lời giáo huấn của Chúa Cha: “Tôi còn có nhiều điều phải nói và xét đoán về các ông. Nhưng Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật; còn tôi, tôi nói lại cho thế gian những điều tôi đã nghe Người nói” (Ga 8,26); “Đạo lý tôi dạy không phải là của tôi, nhưng là của Đấng đã sai tôi” (Ga 7,16).
Những lời xác quyết này và với những lời khác nữa trong Tin Mừng không phải là sự soạn thảo theo ý muốn, tùy tiện, quy nạp và không tương ứng với thực tế của các sự kiện hoặc hành động. Ngược lại, nó là sự xác định cách chính xác của sự việc và hành động, mà nơi Chúa Giêsu có in dấu vết huyền nhiệm của việc giáo dục của Cha trên trời. Đây là một trang cần phải khám phá toàn bộ và cần đọc lại.9 Thật vậy nó muốn nói đến việc nghiên cứu và đào sâu ý nghĩa khoa học nhân bản của Chúa Giêsu, nội dung và nguồn gốc của nó.10
Ở đây chúng ta chỉ nói rằng việc giáo dục này có ý nghĩa là sự nhận thức rõ ràng về căn tính riêng (là con của Mẹ Maria trong thời gian hữa hạn và là con của Cha trên trời từ thuở đời đời), về sứ mệnh riêng (‘tôi phải lo việc của Cha tôi”).
Với chủ đề này, truyền thống của các giáo phụ trao cho chúng ta những yếu tố có ý nghĩa về giáo huấn của Chúa Giêsu khi Ngài được 12 tuổi đối với mẹ của Ngài.
Một vài trang trong tác phẩm Cuộc sống của Đức Maria (Vita di Maria) của thánh Massimo il Confessore (tk. VII) có thể đóng góp cho việc làm sáng tỏ nội dung của việc giáo dục nói trên, sau biến cố lạc mất Chúa Giêsu trong đền thờ (cf Lc 2,44-48):
“Thiên Chúa đáng yêu và dịu dàng đã làm cho Mẹ của Ngài hiểu sự thật: cho biết Cha thật sự của Ngài; và bởi vì để họ không đối xử với Ngài chỉ như một người nam bình thường, nhưng như Thiên Chúa xuống thế làm người, Ngài nói rằng nhà của Cha là Đền Thờ, Ngài thuộc về đó, như tất cả những gì là của Chúa Cha cũng là của Ngài vậy.
Đã có thể làm mất lòng nhau nếu không biết điều này: thật vậy, họ không thể đạt đến sự hiểu biết toàn vẹn sự thật một mình được[…].Nơi đây, lần đầu tiên, Ngài nhớ lại cách rõ ràng người Cha thật sự của Ngài, và bởi vì nếu họ hiểu được thần linh tính của Ngài và họ biết rằng nếu Thiên Chúa là Cha của Ngài, thì điều cần thiết là Người Con cũng cùng một bản thể của Cha […].
Đây là lời giáo huấn và là giáo lý đầu tiên đầy tính thần linh và khôn ngoan của thiếu niên Giêsu. Đức Maria, Thánh Giuse và những người hiện điện ở đền thờ lúc đó đều kinh ngạc và tràn đầy sự ngỡ ngàng, bởi vì họ không thể hiểu được cách sâu xa những gì lời Ngài muốn nói”.11
Cũng cùng một tác giả cho rằng một yếu tố cụ thể khác trong giáo huấn của Chúa Giêsu là cách cư xử đầy nhân đức của Người trong suốt thời ẩn dật ở Nazareth:
“Những giáo huấn đó là: tình yêu của Thiên Chúa và của nhân loại, lòng thương xót, sự vui vẻ, tinh thần tươi trẻ, là sự dịu dàng và bình an, sự khiêm tốn và kiên nhẫn, sự kính trọng và vâng lời cha mẹ, sự chay tịnh, đời sống cầu nguyện và những việc lành: Thiên Chúa đáng yêu đã dạy con người những điều đó trước là bằng những hành động và rồi sau đó với lời nói.
Khởi đi từ giây phút này, Mẹ Maria trở nên môn đệ của Người Con dịu dàng, trở thành người Mẹ thật sự và nữ tử của sự khôn ngoan, bởi vì Mẹ đã không nhìn và không đối xử với Chúa Giêsu bằng con mắt nhân loại nữa hoặc đơn giản như một người nam bình thường, nhưng Mẹ đã phục vụ Ngài với sự kính trọng dành cho Thiên Chúa và đón nhận những lời của Ngài như lời của Thiên Chúa”.12
Kết luận, nếu giáo dục có nghĩa là sự thăng tiến toàn vẹn con người, là sự lớn lên về mọi phương diện, sự hoàn thiện những năng lực tích cực, thì giữa Chúa Giêsu và mẹ Maria có một thái độ “giáo dục hỗ tương”. Từ phía Mẹ, Mẹ đã làm cho lớn lên nhân cách toàn diện của Con Thiên Chúa trong tất cả chiều kích xã hội, hội nhập văn hóa và sự thích nghi. Về phần Chúa Giêsu, Ngài chăm sóc cho sự lớn lên về mặt thiêng liêng của Đức Maria trong tất cả những gì liên quan đến mầu nhiệm nhập thể, khổ nạn và phục sinh của Ngài. Chính vì điều này, chúng ta có lý do để gọi Đức Maria là nhà giáo dục và là môn đệ của Con Thiên Chúa.
6. Đức Maria, môn đệ của Thiên Chúa
Cũng như danh hiệu là Mẹ Chúa Giêsu, danh hiệu là môn đệ cũng có một tiếng vang tích cực và mang tính đại kết. Nó có nền tảng trong Thánh kinh. Trong Mt 12,46-50 (Mc 3,31-35 và Lc 8,19-21) được trình bày bởi Chúa Giêsu rằng, đang khi dạy dỗ dân chúng, có mẹ và những người thân của Ngài đến tìm gặp Ngài. Chúa Giêsu đã chất vấn: “Ai là mẹ Ta và ai là anh em Ta?”. Rồi Ngài đưa tay hướng về những môn đệ và nói: “Đây là Mẹ Ta và đây là anh em Ta; ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh chị em ta, là Mẹ Ta” (Mt 12,48-50). Đối với Chúa Giêsu, mối tương quan của người môn đệ gần gũi với cõi lòng Ngài hơn là tương quan gia đình.
Tương quan này được khai sinh và có nguồn gốc bởi việc “làm theo Thánh ý của Chúa Cha”. Vâng phục Thiên Chúa có nghĩa là đi vào trong tương quan mật thiết tuyệt đối với Chúa Giêsu, thậm chí có thể làm cho người đó trở nên “mẹ”.
Thánh sử Luca phát họa dung mạo của Đức Maria như người môn đệ, sau khi đã miêu tả ngài như là Mẹ của Thiên Chúa nhập thể. Sự kiện đó đã diễn ra ngay sau dụ ngôn người gieo giống và hạt giống rơi xuống những mảnh đất khác nhau (cf Lc 8,4-15). Điều đó có nghĩa là điều Đức Giêsu đã nói phải được soi sáng bởi bối cảnh này. Lời kết luận là lời xác định kiên quyết” “Mẹ tôi và anh chị em tôi là những ai lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21).
Tất cả những điều đó rất thích hợp để áp dụng cho Đức Maria, người đã lắng nghe trong sự vâng phục đức tin lời của Thiên Chúa. Trình thuật về biến cố truyền tin trình bày Mẹ như là người tín hữu đầu tiên: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền” (Lc 1,38). Bà Elizabeth đã ngợi khen Mẹ vì niềm tin này của mẹ: “Phúc cho em vì em đã tin rằng Lời Chúa phán cùng em sẽ được thực hiện” (Lc 1,45).
Khi một người phụ nữ vô danh trong đám đông ca ngơi mẹ Chúa Giêsu: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm” (Lc 11,27), nhưng Giêsu đã xác nhận: “Đúng hơn phải nói rằng : phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa!” (Lc 11,28).
Lời khẳng định này, không phải là sự chối bỏ Mẹ Maria, nhưng là sự đánh giá cao nhất. Đức Maria đã xác minh trong sự tròn đầy chính con người của mẹ hai điều kiện để có thể là “môn đệ” của Thiên Chúa: lắng nghe lời Chúa, đón nhận Lời và đem ra thực hành cách cụ thể trong đời sống thường ngày. Rõ ràng là một người mẹ kép: bởi vì ngài đã vâng phục Chúa Cha và đã sinh ra Con Thiên Chúa. Hay đúng hơn là đã hạ sinh chỉ vì đã vâng phục. Đức tin đã đi trước sự hạ sinh. Thánh Augustino đã nói: “Đức Trinh nữ Maria không yêu mến và rồi mang thai, nhưng đã tin rồi mới mang thai”.13 [La Vergine Maria non amò e concepì, ma credette e concepì]
7. Đức tin của Đức Maria và “sự lao nhọc của con tim” [fatica del cuore]
Với Đức Maria, việc đón nhận Chúa Giêsu trong sự vâng phục của tâm trí và với cả cõi lòng đã không là một thời khắc chính xác, cũng không phải là một kinh nghiệm của sự nhận thức rõ ràng, nhưng thực sự là một cuộc hành hương của sự trưởng thành, mà nó kéo dài trong tất cả hiện hữu của mẹ và đã được đánh dấu bởi sự khó khăn trong việc thấu hiểu.
Mẹ Maria đã là môn đệ của Con Thiên Chúa ngay từ giây phút Truyền tin cho đến mầu nhiệm Vượt Qua. Đức Tin của Mẹ là một đức tin trên đường lữ hành, trên tiến trình trưởng thành và hoàn thiện. Trong Mẹ đã có một sự phát triển rất riêng và thật sự nó đòi hỏi một sự mạnh mẽ lớn lao và một sự lao nhọc, đó là “sự lao nhọc của con tim”.
Chúng ta đọc lại một phân tích có giá trị quí giá, có sức thuyết phục và cũng mang đặc tính tâm lý mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II đã nêu lên về đức tin của Đức Maria, “người được giáo dục” bởi Thiên Chúa:
“Trong những năm sống ẩn dật của Chúa Giêsu trong ngôi nhà ở làng Nazareth, đời sống của Mẹ Maria cũng là một đời sống ‘ẩn dật với Đức Kitô trong Thiên Chúa’ (cf Cl 3,3) nhờ bởi đức tin. Thật vậy, đức tin là một sự tiếp chạm với mầu nhiệm của Thiên Chúa. Đức Maria, một cách bền bỉ, kiên trì và thường nhật đã tiếp chạm với mầu nhiệm không thể diễn tả bằng lời của Thiên Chúa xuống thế làm người, mầu nhiệm này vượt quá tất cả những gì đã được mạc khải trong Cựu Ước. Ngay từ giây phút truyền tin, tâm trí của Đức Trinh nữ Maria đã được đưa dẫn vào sự ‘mới mẻ’ triệt để của sự tự mạc khải của Thiên Chúa và ý thức về mầu nhiệm này […].
Làm thế nào Đức Maria có thể “nhận biết Con Thiên Chúa”? Chắc chắn rằng, Mẹ đã không biết như Chúa Cha biết. Tuy nhiên, Mẹ là người đầu tiên giữa những người mà Chúa Cha ‘muốn mạc khải cho’ (cf Mt 11,26-27; 1Cr 2,11) […]. Đức Maria – là Mẹ - ngài đã tiếp chạm với sự thật của Con Thiên Chúa chỉ trong đức tin và ngang qua đức tin! Vì vậy, mẹ được chúc phúc, bởi vì “đã tin”, và tin mỗi ngày trong tất cả những thử thách và chống đối trong thời niên thiếu của Chúa Giêsu và trong suốt thời gian Ngài sống ẩn dật tại Nazareth […].
Tuy nhiên không khó khăn để lưu ý rằng trong khởi đầu này có một sự lao nhọc của con tim, làm một với một loại ‘đêm tối của đức tin’ – như Thánh Gioan Thánh giá đã dùng một từ ngữ khác - gần như một ‘màn che’ mà ngang qua đó chúng ta cần tiến đến gần với Đấng Vô Hình và sống trong sự mật thiết với mầu nhiệm. Thật vậy, chính trong cách thức này, Đức Maria trong rất nhiều năm, Mẹ đã ở lại trong sự kết hiệp mật thiết với mầu nhiệm của Con Thiên Chúa, và tiến bước mỗi ngày trên hành trình của đức tin”.14
Như vậy, với Đức Maria, sự hiệp thông với Chúa Giêsu là một sự giáo dục đức tin thật sự và riêng tư, được đánh dấu bởi sự lao nhọc của con tim, nó như một loại đêm tối và gần như bức màn che. Nơi Đức Maria, đã không có trước một cái nhìn toàn diện và rõ ràng về mầu nhiệm của Con Thiên Chúa. Mẹ đã có một trí thông mình của đức tin, được sống và rèn luyện bởi sự lao nhọc trong vâng phục, trong thách đố của đêm tối và sự gia tăng tiệm tiến của sự hiểu biết.
Thái độ này có thể được ví như thái độ sống đức tin của ông Abraham, “người cha của chúng ta trong niềm tin” (cf Rm 4,12). Như đức tin của Abraham đã khởi đầu cho giao ước cũ, “mặc dù không còn gì để trông cậy, nhưng ông vẫn trông cậy và vững tin” (cf 4,18), cũng như thế, tiếng thưa Fiat – Xin vâng của Đức Maria trong biến cố truyền tin là bước mở đầu cho giao ước mới.
Đức Trinh nữ Maria - là Đấng được chúc phúc dạy chúng ta sống sự hiệp thông đời sống với Chúa Giêsu đòi hỏi phải luyện tập, có thái độ tín thác liên tục và trọn vẹn của đức tin. Trong khía cạnh này, đời sống mật thiết với Thiên Chúa liên quan đến một sự phó thác tuyệt đối và một sự cậy trông hoàn toàn vào Ngài. Ở đây muốn nói đến một quyết tâm bao hồm hai sự lao nhọc: một là không thể hiểu hoặc không hiểu hết được những đêm tối đức tin, của màn che làm cản trở tầm nhìn; hai là sự hãm mình và những đau khổ.
Một tác giả có tên Jean Guitton đã viết như sau: “ Trong tinh thần của Đức Maria, cũng như tinh thần của mỗi người, Thiên Chúa tôn trọng qui luật này của sự phát triển là thuộc tính riêng của các tạo vật thuộc về thời gian vật chất, đó là sự chuyển hóa tự do từ sự nhận thức còn mù mờ bước sang sự hiểu biết riêng biệt và rõ ràng, mà nó góp phần hình thành nên phẩm chất của chúng ta […]. Tường thuật về việc tìm thấy Chúa Giêsu lạc mất trong đền thờ nói cho chúng ta tương đối rõ ràng suy nghĩ của Đức Maria đã biết thế nào là đêm tối của niềm tin hoặc một sự phát triển […]. Nó làm chúng ta nghĩ rằng nếu đã có một sự tăm tối nào đó, là nguồn gốc của khổ đau, thì cũng chính điều đó mà sự tăng trưởng của sự thật đòi buộc chúng ta và chúng ta được mời gọi phải lớn lên với sự tăm tối đó”.15
Có lẽ chỉ khi đứng gần thập giá của Chúa Giêsu, Đức Maria mới nhận được một sự soi sáng quyết định. Lời trăn trối của Chúa Giêsu (cf Ga 19,25-27) đã biến đổi sự đau khổ tột cùng của Mẹ thành niềm vui vô biên qua việc dâng hiến tình mẫu tử của mẹ để chăm sóc những người con mà chính Đức Giêsu - Người Con Thần linh của mẹ đã trao phó.
8. Đức Giêsu – vị Thầy/vị Tôn sư 16
Nếu Chúa Giêsu đã học từ Mẹ Maria và tiếp tục học nơi Mẹ và những người khác nữa trong suốt hành trình đời sống trần thế, thì trong lãnh vực kế hoạch cứu rỗi thần linh, ngay từ khi còn nhỏ, Ngài đã là và tiếp tục là Thầy, là vị Tôn sư và nhà giáo dục.
Thật vậy, bài giảng, lời loan báo, giáo huấn, lời dạy dỗ là đặc điểm nổi bật hơn trong hoạt động của Ngài trước mầu nhiệm Vượt Qua. Ngài tự bày tỏ mình như là vị Thầy/vị Tôn sư (Didaskalos) và như thế được gọi nhiều lần trong tân Ước ( 41 lần và 19 lần danh xưng này được dùng cách trực tiếp. Danh xưng này của Ngài (cf Mc 9,17.38; Mt 8,19;Lc 10,25) thông thường là bản dịch của hạn từ theo tiếng Do Thái rabbi,17 cũng thường được sử dụng trong các Tin mừng (cf Mc 9,5; 10,51; 11,21;14,56; Ga 1,38; 20,16). Đức Giêsu đã nói và đã cư xử như một vị Thầy trong thời đại của Ngài, người ta đã đặt ngài giải quyết những nghi ngờ hoặc vụ kiện thuộc pháp lý (cf Lc 12,13s), những câu hỏi, chất vấn về giáo lý (Mc 12,18ss), và thu nhận những môn đệ xung quanh Ngài.
Hạn từ “Thầy”/”Tôn sư” được sử dụng trong một cách thức tuyệt đối như là từ đồng nghĩa với tên Giêsu, Thầy/Tôn sư (cf Mt 9,11; 10,24s;17, 24). Trong ý nghĩa này cần hiểu lời giáo huấn chính Chúa Giêsu dành cho các môn đệ của Ngài: “Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là "ráp-bi", vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau” (Mt23,8). Có lẽ chúng ta đối diện với (Mc 14,14) sự tái giải thích thú vị mang tính “kitô học”của danh xưng tiền phục sinh: “Đức Giêsu là ‘Thầy’, và sau cái chết, Ngài đã sở hữu được một quyền bính bền vững (cf Ga 3,2;11,27s và 13,13s, trong đó didáskalos được đối chiếu với những danh xưng kitô học khác)”.18 Một đặc điểm nguyên gốc của Chúa Giêsu là quyền bính lạ thường của Ngài.19 Lời dạy dỗ của Ngài được thực hiện với một quyền bính. Sau khi Ngài rao giảng trong hội đường ở Caphanaum, những người nghe Ngài “sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư (Mc 1,22; cf 1,27: Mt 7,29). Trong khi các kinh sư là những người diễn giải về truyền thống của cha ông họ, thì Chúa Giêsu dạy dỗ người nghe với một uy quyền chỉ đến từ Thiên Chúa (cf 1,22; Lc 4,32).
Chính vì điều này mà đám đông và cả những môn đệ xem Ngài như một tiên tri (Mc 6,15; 8,28; 24,19; Mt 21,46; Lc 7,16).20 Tuy nhiên, Chúa Giêsu giữ cho mình vị thế trổi vượt hơn các tiên tri: “Mà đây thì còn hơn ông Gioan nữa” (Mt 12,41; Lc 11,32); “mà đây thì còn hơn vua Salomon nữa” (Lc 11,32). Cái ‘hơn’ nàycó giá trị tuyệt đối. Đức Giêsu không trình bày mình như một trong các tiên tri. Trong Ngài có một bước chuyển chất lượng. Là ngôn sứ cuối cùng, dứt khoát, trổi vượt trên các tiên tri. Ngôn sứ bày tỏ lời và thánh ý của Thiên Chúa. Danh xưng kitô học theo thánh Gioan “Logos” sẽ đảm nhận thực tại sâu xa tiền phục sinh này của Chúa Giêsu.
Nội dung căn bản lời giảng dạy của Chúa Giêsu là lời loan báo về Vương quốc,21 như một thực tại trái ngược với tất cả những gì thuộc hiện tại, thuộc thế gian này, và như vậy, một cách duy nhất, đó là món quà của Thiên Chúa. Sự đến của Vương Quốc không thể được thôi thúc một cách nhân loại, cũng không thể ngang qua một trận chiến chống lại những kẻ thù của Thiên Chúa (như nhóm nhiệt thành), cũng không phải nhờ trung gian của sự quan sát quá kỹ càng tỉ mỉ của lề luật (như các Phariseu). Cũng không có thể được gìn giữ riêng cho một nhóm người hoàn hảo, ví dụ cộng đoàn Qumran. Sự chờ đợi của Vương Quốc phải là kiên nhẫn và trông cậy (cf dụ ngôn hạt cải, men trong bột và sự tự lớn lên của hạt giống: Mc 4,30-32; Mt 13,33; Mc 4,26-29).
Sự diễn tả “Vương quốc của Thiên Chúa” hoặc từ đồng nghĩa “Nước Trời” được sử dụng nhiều đến trong Tin mừng Nhất lãm (hơn 120 lần, trong khi đó Tin mừng theo thánh Gioan chỉ dùng 5 lần và khoảng 30 lần trong các sách khác của Tân Ước). Nó là đặc điểm lời rao giảng của Chúa Giêsu tiền phục sinh và đã tóm tắt một cách trung thành sứ điệp của Chúa Giêsu lịch sử: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng."(Mc 1,15; cf Mt 4,17). Nguyên nhân việc rao giảng của Chúa Giêsu là lời loan báo Vương quốc Thiên Chúa và sự đến của vương quốc ấy trên trái đất này.
Thực tại của Vương quốc thì rất mầu nhiệm. Đức Giêsu tuyên bố rằng vương quốc này đã đến gần: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15. Ngài nói thêm: “"Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy! Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe” (Lc 10, 23-24s). Trong hội đường ở Nazareth, khi giải thích về đoạn sách Isaia, Đức Giêsu nói; “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21). Như vậy, giờ của Đấng Messia đã đến, thời gian cứu rỗi đã đến, đó là thơi gian mà “Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,5). Và cũng ngang qua các dụ ngôn, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự hiện diện của Nước Trời trong thực tế đời thường và cụ thể: dụ ngôn hạt cải (Mc 4,31), dụ ngôn men trong bột (Mt 13,33), dụ ngôn hạt giống tự mọc lên (Mc 4,26s).
Tuy nhiên, Nước Trời là một thực tại sau cùng, mang tính cánh chung, nó là kết thúc của lịch sử và sẽ còn hiện thực bên kia lịch sử hay nói cách khác là vượt lên trên lịch sử. Sự thành toàn của nó sẽ được ghi dấu bởi sự trở lại của Con Thiên Chúa, Ngài sẽ ngự đến trong Vương quốc của Ngài (Mt 16,28; Mc 9,1; Lc 9,27). Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cầu nguyện : “xin cho nước Cha trị đến” (Mt 6,10). Thực tại Nước Trời mang tính tổng thể. Nước Trời đã hiện diện trong lịch sử, trong thời gian hiện tại, nhưng còn chưa được hiện thựa hóa cách sung mãn trong trần gian. Lịch sử đã được đánh dấu bởi sự hiện diện có phẩm chất của Nước Trời, tiến tới sự thành toàn viên mãn cuối cùng trong cuộc quang lâm.
Hơn nữa, Nước Trời là hồng ân đặc biệt của Thiên Chúa. Con người không thể tự ban cho mình được, cả chính trị, xã hội và luân lý cũng không. Vì vậy mới gọi là “Nước của Thiên Chúa”: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em” (Lc 12,32).
Nước Trời có một đặc điểm là cứu rỗi. Được trao ban vì phần rỗi của nhân loại: “Đức Giê-su đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 9,35). Nước Trời được bày tỏ trong lịch sử như sự vượt qua và tàn phá những sự xấu vật lý và luân lý, tội lỗi, đau khổ và sự chết. Là sự tái-sáng tạo con người và thiên nhiên vạn vật.
Nước Trời là hiện thực của sự đến mang tính messia ngang qua con người và công trình cứu độ của Chúa Giêsu:
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19).
Ngay sau đó Chúa Giêsu nói tiếp: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21).
Nước Trời có chiều kích Kitô học.22 Nó được đồng hóa với chính con người của Chúa Giêsu và sự hiện diện của Ngài. Các môn đệ của Gioan đã hỏi Người: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Mt 11,3), Chúa Giêsu trả lời: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (Mt 11,4-6). Đức Giêsu đã tự định nghĩa mình như là Nước Thiên Chúa. Sự hiện diện của Ngài là sự hiện diện của Nước Trời. Giaó lý của Ngài, hành động và cách cư xử của Ngài cấu thành nên sự xâm nhập vào Vương quốc của Thiên Chúa trên trái đất này. Thật vậy, việc trao ban Nước Trời thuộc về quyền của Chúa Cha (Lc 12,32), nhưng cũng là sự thật là Chúa Giêsu chuẩn bị Nước Trời cho chúng ta: “Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy” (Lc 22,29). Với Giêsu đã khai mở “một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4,19).
Vương Quốc của Thiên Chúa là một hồng ân Thiên Chúa Cha ban cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô và nó đã bắt đầu phát sinh hoa trái trong lịch sử, cho dù nếu sự thành toàn của nó sẽ là ngày cánh chung. Nó liên quan đến con người là lời mời gọi hoán cải và đón nhận cách triệt để những đòi hỏi của nó: loại bỏ đi tất cả để mua lấy viên ngọc quý (Mt 13,45-46), từ bỏ gia đình và tài sản riêng (Mt 10,37), nguy hiểm đến tính mạng (Lc 17,33; cf Mc 9,43; Mt 5,29). Thật vậy, Vương Quốc là một cửa hẹp (Lc 13,24): “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18,3). Vương Quốc đòi một sự lệ thuộc tuyệt đối của con người vào Thiên Chúa, như trẻ thơ phụ thuộc hòa toàn vào sự chăm sóc của cha mẹ. Ở đây muốn nói đến một sự tái sinh - sinh lại từ trên cao: “không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên” (Ga 3,3).
Một lognhion của Tin Mừng ngoại thư của thánh Toma, mang tính xác thực, đáng tin cậy, đã ghi lại câu nói của Chúa Giêsu: “Ai ở gần tôi là ở gần lửa; ai ở xa tôi, thì xa Vương Quốc của tôi”.23 Vương Quốc được hiện thực trong sự ở gần với Giêsu, ở lại cách tuyệt đối trong Ngài. Nơi con người của Ngài đã là sự thành toàn của Vương Quốc. Được khai mạc nơi Giêsu, sự đến của Vương Quốc rồi sẽ được nối dài trong Giáo Hội (cf Mt 13,38; 21,43).24
9. Đức Maria – nhà giáo dục, bà giáo của linh đạo kitô giáo: “singulis Chistianis pietatis magistra” (MC n. 21)
Bên cạnh Thầy Giêsu, Tân Ước đặt để Đức Maria trong sự lệ thuộc vào Con Thiên Chúa. Trên đồi Canvê Mẹ đã lãnh nhận từ Người Con sứ mệnh là Mẹ và nhà giáo dục của Giáo Hội: “Hỡi Bà, này là con Bà” (Ga 19,26).
Lúc bấy giờ, Đức Maria đã thực thi sứ mạng này ngay lập tức, ngay từ buổi khởi đầu của Giáo Hội, khi cộng đoàn kitô hữu tiên khởi đã nhìn thấy nơi Đức Maria là một người mẹ luôn sẵn sàng cứu trợ và giúp đỡ, người mẹ mà Chúa Giêsu đã trao phó các môn đệ, mẹ đã qui tụ cùng với các tông đồ trong cầu nguyện để chờ đợi Chúa Thánh Thần ngự đến.
Tất nhiên ở đây cần thực hiện một sự lựa chọn quan trọng. Cần phải lựa chọn cho một khái niệm về giáo dục kitô giáo mà nó có ý nghĩa là sự đào luyện toàn diện của kitô hữu ngang qua một giáo lý liên tục. Phần còn lại, về giáo lý, theo tài liệu Hướng dẫn về việc dạy giáo lý (1997), là một việc giáo dục dẫn đưa kitô hữu đến kinh nghiệm về sự hiệp thông với Chúa Giêsu. Không phải là việc thông truyền các khái niệm, nhưng là làm kinh nghiệm về đức tin. Giáo lý trở nên giáo dục đời sống thiêng liêng: “Mục tiêu sau cùng của giáo lý là đặt để một ai đó không chỉ vào sự tiếp xúc, nhưng còn là vào sự hiệp thông, vào sự kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu Kitô”.25
Như vậy, giáo dục kitô giáo và giáo dục trở thành những chiều kích của linh đạo kitô giáo, nghĩa là đưa dẫn vào đời sống trong Đức Kitô. Trong việc giáo dục cho sự hiệp thông với Đức Kitô này, Đức Maria là Mẹ, ngài có một vai trò không thể từ chối và không thể thay thế được, xây dựng nền tảng trên kinh Thánh và được kiểm nghiệm trong lịch sử.26 Chính vì điều này ĐTC Phaolo VI đã gọi Đức Maria là Bà giáo hướng dẫn đời sống thiêng liêng của mỗi kitô hữu: singulis christianis pietatis magistra (MC n.21).
Chúng ta cho rằng Đức Maria không chỉ là nhà giáo dục của Chúa Giêsu nhưng còn là nhà giáo dục và nhà đào luyện mỗi người kitô hữu đến sự hiệp thông với Chúa Giêsu. Sự đào luyện đó được gọi là lối thiêng Maria hoặc linh đạo Maria. Giáo dục kitô giáo trở thành linh đạo maria, ngang qua sự qui hướng rõ ràng vào Đức Maria, gương mẫu và sự trợ giúp hữu hiệu. Ở đây muốn nói đến một giả thuyết mà chúng ta nói ra một cách đơn giản, nhưng có thể được thiết lập cách xác đáng và phát triển cách rộng rãi. Chúng tôi chỉ trình bày một vài yếu tố rất tóm tắt, là tổng hợp giả thuyết thần học này của chúng tôi.
Trong khi tổng hợp và tóm tắt những dữ kiện Kinh Thánh và Thánh Truyền, có thể tóm gọn trong 4 đặc điểm cơ bản nền tảng của một nền Sư phạm phong cách Maria đích thực, mà nếu thực hiện, có thể đưa dẫn chúng ta đến một một sự hiện hữu tròn đầy của đức tin người kitô hữu. Bốn điểm đó là: 1. Ba Ngôi học; 2. Giáo hội học; 3. Nhân chủng học; 4. Thực hành. Những điểm này xây dựng nên những tiêu chuẩn của sự biện phân và của sự đánh giá của tính xác thực của nó.
Chúng ta cũng nhớ rằng những hạn từ: “nhà giáo dục”, “việc giáo dục” được hiểu ở đây như là sự đào luyện toàn diện kitô giáo và như đời sống hiệp thông với Chúa Giêsu. Muốn nói đến sự giáo dục mà Đức Maria trao ban cho những người con của mẹ, không chỉ như “mẫu gương” của người môn đệ và của seguela Christi, nhưng trên hết như “sự trợ giúp”, đấng trung gian và người bầu cử hữu hiệu bên cạnh Con Thiên Chúa cho sự trưởng thành của chúng ta trong đức tin.
9.1. Sống kinh nghiệm Ba Ngôi: kinh nghiệm về sự hiệp thông với Thiên Chúa
Đức Maria là thụ tạo do Thiên Chúa Ba Ngôi tác tạo nên và “mang mặc hỉnh ảnh của Ba Ngôi”. “Trong mầu nhiệm của Đức Kitô, Mẹ đã hiện hữu ‘trước khi tạo thành vũ trụ’, như người nữ mà Chúa Cha ‘đã tuyển chọn’ làm Mẹ của Con Thiên Chúa nhập thể – và cùng lúc, Chúa Cha cũng đã chọn Chúa Con, và trao phó Mẹ cách vĩnh viễn cho Chúa Thánh Thần”.27
9.1.1. Sự vâng phục Chúa Cha
Cấu trúc Ba ngôi cốt yếu này của hiện hữu và cuộc lữ hành trần thế của Đức Maria cấu thành nên nền tảng của đào luyện kitô giáo, mà trước hết nó là kinh nghiệm sâu xa của đời sống Ba Ngôi thần linh.
Đức Maria đã sống một sự phó thác hoàn toàn trong niềm tin vào thánh ý của Chúa Cha. Như Đức Maria, Mẹ của chúng ta trong đức tin,28 và là đại diện cho mỗi kitô hữu - sự vâng phục con thảo đối với Chúa Cha là khởi đầu cho hành trình của họ tiến về đời sống hiệp thông tròn đầy với Thiên Chúa. Sự vâng phục đó là cuộc đối thoại giữa lời mời gọi của Thiên Chúa và sự đáp trả của con người, giữa sự tuyển chọn và sự trung tín, giữa ân sủng và tự do.
Như lời thưa “Fiat” của Đức Maria, lời “Fiat” dành cho Chúa Cha của mỗi kitô hữu có nghĩa là phó thác mình cách con thảo cho sự quan phòng của Thiên Chúa, sống trong viễn tượng này của đức tin, là đặt để trên bàn tay của Chúa Cha sự hiện hữu mỗi người và tương lai của chính mình.
Trong điều kiện này của sự phó thác trọn vẹn và con thảo nơi cung lòng của Chúa Cha, cuộc sống trở nên một cuộc đối thoại chắc chắn hướng về cùng đích: lúc ấy, quan trọng gì nếu biển cả có nổi phong ba bão táp, nếu mặt đất chuyển rung, nếu bầu trời kéo mây đen tối sầm lại, nếu ban đêm trở nên tăm tối và lạnh lẽo, nếu chúng ta không thể hiểu tất cả, nếu những người khác không hiểu và yêu thương chúng ta, nếu chúng ta cảm thấy cô đơn?
Đức tin nói với chúng ta rằng, chúng ta được bao bọc bởi tình yêu của Chúa Cha, và ở đâu có chúng ta, ở đó có Chúa Cha – Ngài ở đó để chăm sóc, hiểu và yêu thương chúng ta. Vì vậy chúng ta không bao giờ sống trên đất của dân ngoại, và ngay cả khi chúng ta không biết nói và không biết viết ngôn ngữ của một dân tộc nào đó. Quê hương của chúng ta ở trong thực tại của Thiên Chúa – Cha của chúng ta và quê hương của chúng ta - Ngài là Đấng giàu lòng xót thương, hằng luôn nói với chúng ta bằng ngôn ngữ của tình yêu và của lòng từ bi thương xót.
Giáo dục theo phong cách Maria, trước hết là sống như Đức Maria và với sự trợ giúp của Mẹ, thực tại tình yêu con thảo này ở trong Thiên Chúa, Cha của chúng ta.29
9.1.2. Sự hiệp thông với Chúa Con
Nhưng việc giáo dục nói trên cũng liên quan đến sự hiệp thông mật thiết với Chúa Giêsu, Con Duy Nhất của Chúa Cha và là Đấng Cứu Chuộc chúng ta. Với Đức Maria, sự chung sống này đã không chỉ là một kinh nghiệm mẫu tử chất chứa sự ngạc nhiên của niềm vui và của sự dịu dàng. Nhưng còn là một cuộc sống thường nhật và nhiều lao nhọc trong việc nhận biết Con Thiên Chúa trong đức tin. Dẫu rằng có những chống đối, sự hiểu lầm,…, Mẹ vẫn tin trong từng ngày sống của Người Con.
Đức Maria là Mẹ của Con Thiên Chúa, nhưng trên hết là môn đệ của Ngài: từ biến cố truyền tin cho đến dưới chân thập giá trên đồi Canvê, là một hành trình liên tục để học từ Người Con và tìm hiểu biết Ngài. Với Mẹ Maria, sự gắn bó về thể lý này làm cho sắc bén hơn những nỗi khó khăn trong việc chạm đến sự thâm sâu của mầu nhiệm đời sống của Đức Kitô. Không phải là sự thấu hiểu, nhưng là đức tin, ngang bằng với tình yêu mẫu tử mà Mẹ dành cho Chúa Giêsu.
Như Đức Maria, mỗi người kitô hữu, cuộc sống với Giêsu là cuộc sống của đức tin, luôn luôn mang đến một sự lao nhọc đặc biệt của con tim trong việc nhận ra trong những biến cố, trong những con người, dấu chỉ, kế hoạch của Thiên Chúa và dung mạo của người Con của Mẹ. Để có thể nhận biết và hiểu được Chúa Giêsu, cần phải liên tục vén lên bức màn của lịch sử và toàn cảnh của thế giới thụ tạo.
Như vậy, giáo dục theo phong cách Maria không mang tính trì trệ nhưng rất năng động cho việc khám phá dung mạo của Đức Kitô trong lịch sử và trong thế giới. Tuy nhiên, “Cuộc hành hương đức tin” này không thiếu sự trợ giúp tương xứng của chính Chúa Giêsu. Ngài nâng đỡ chúng ta qua bí tích Thánh Thể - một mầu nhiệm vĩ đại của đức tin [grande “mysterium fidei”], đó là cách Chúa Giêsu ở lại với chúng ta cho đến ngày tận thế.
9.1.3. Sự dễ dạy với Chúa Thánh Thần
Như thánh điện của Chúa Thánh Thần, Đức Maria đã là thụ tạo đầu tiên sống một cách sung mãn trong Chúa Thánh Thần. Mẹ đã theo Ngài từ giây phút đầu tiên của hiện hữu trên thế gian này cho đến vinh quang được đưa cả hồn xác về trời. Mẹ là một thụ tạo ‘thiêng liêng’ xuất sắc, được chuẩn bị sự thánh thiện lớn lao từ Đấng Rất Thánh. Chúa Thánh Thần đã cho Đức Maria trở nên giàu có bởi những ân huệ của Ngài và làm cho Mẹ trở thành icona của Ngài.
Như vậy, giáo dục theo phong cách Maria là đào luyện để sống trong Chúa Thánh Thần. Có nghĩa là cuộc sống kitô hữu không sống theo xác thịt nhưng sống theo Thần Khí, như sự hiện hữu tràn đầy những ân huệ của Chúa Thánh Thần. Đào luyện theo phong cách Maria là kinh nghiệm sống như nơi trú ngụ của Chúa Thánh Thần, là hào quang của đức ái thần linh của Ngài, là người mang chở những hoa trái của Chúa Thánh Thần: “Hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ[…]. Những ai thuộc về Đức Ki-tô Giê-su thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê. Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước” (Gal 5,22.24-25).
Vâng phục Chúa Cha, hiệp thông với Chúa Con, trở nên dễ dạy với những hồng ân của Chúa Thánh Thần cấu thành nên cấu trúc của nền giáo dục kitô giáo, trên gương mẫu cùng với sự trợ giúp từ mẫu và hữu hiệu của Đức Maria.
9.2. Sống chiều kích Giáo Hội: kinh nghiệm của việc cử hành
Kinh nghiệm về hiệp thông Ba Ngôi này được sống một cách cụ thể trong cộng đoàn Giáo Hội. Đời sống đức tin được bắt đầu với bí tích Rửa Tội, phát triển, được kiện cường và được thành toàn trong Giáo Hội ngang qua việc cử hành và tham dự vào các bí tích.
Giáo dục theo phong cách Maria, là như Đức Maria, kín múc nơi những nguồn ân sủng là cử hành lời tạ ơn của Đức Kitô trong Mẹ, trong tất cả các kitô hữu và nơi toàn thể nhân loại.
Giáo dục theo phong cách Maria không thể kết thúc nơi bản thân mình [fine a se stessa]. Cùng đích của sự giáo dục này là sự định hướng, đưa dẫn con người về với Đức Kitô, đấng Trung Gian Duy Nhất, đến với Giáo Hội – là bí tích của ơn cứu độ. Việc chạy đến với tất cả niềm tin tưởng nơi sự trợ giúp và bầu cử từ mẫu của Mẹ Maria có một chiều kích kitô học và giáo hội học mang tính nội tại và nền tảng.
Sự kiên trì của giáo dục kitô giáo là việc cử hành hồng ân cứu rỗi nơi các bí tích Hòa giải và Thánh Thể. Nhờ sự quan phòng thần linh, Đức Maria là người dẫn đường, đấng mời gọi các kitô hữu đến với Giáo Hội và Mẹ sẽ hướng dẫn họ đến với Chúa Giêsu. Như vậy, có một mối tương quan mật thiết giữa đào luyện phong cách Maria, đời sống giáo hội và bí tích. Đúng hơn, đây là một tiêu chuẩn đầu tiên của việc biện phân của nền giáo dục kitô giáo đích thật.
9.3. Kinh nghiệm của trái tim mới: sự phục hồi của nhân tính đích thực
Hệ quả kéo theo, đào luyện phong cách Maria trở thành kinh nghiệm của việc làm mới lại hình ảnh đích thực của người nam và người nữ, tái tạo bởi ân huệ thần linh. Điều đó đòi hỏi một sự cố gắng hoặc phục hồi những tình trạng nhân đức, vẫn đang tiếp tục bị làm cho suy yếu hoặc bị phá hủy bởi sự bất trung và tội lỗi. Đó là kinh nghiệm sống không bằng con tim bằng đá nhưng với con tim mới, con tim bằng thịt (cf Ez 36, 26-27), với chính con tim của Chúa Giêsu.
Giáo dục theo phong cách Maria là kinh nghiệm của nhân loại mới trong Đức Kitô là “Adam mới” dựa trên gương mẫu của Đức Maria “Eva mới”. Sự hiệp thông Ba Ngôi, được sống và trải nghiệm trong việc cử hành các bí tích, làm phong phú hóa sự trao đổi thần linh này. Người kitô hữu được nuôi dưỡng trên trần gian bởi bánh của đời sống vĩnh hằng, trong khi trả lại cho từng thớ thịt của trái tim mình sự cường tráng và sự trong suốt của ân sủng.
Đức Maria giáo dục mỗi kitô hữu bước vào trong luật của tình yêu Ba Ngôi nhằm trao trả lại cho trái tim của họ một viễn ảnh của tình yêu. Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4,8.16). Và vì tình yêu mà Chúa Cha đã gửi Con Một mình: “Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một” (Ga 3,16). Tình yêu của Chúa Cha đã chuyển trao cho nhân loại ngang qua Người Con: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” (Ga 15,9). Tình yêu đó của Chúa Giêsu đạt tới đỉnh cao trong sự vâng phục Chúa Cha trên thánh giá: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ “đến cùng” (Ga 13,1): Đức Kitô “đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gal 2,20). Là tình yêu của điều răn mới: “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5).
Đức Maria là thụ tạo đầu tiên sống với trái tim mới này, được tái tạo hoàn toàn nhờ bởi ân sủng thần linh của Thiên Chúa Ba ngôi. Và vì vậy đã được làm cho đủ khả năng là bà giáo của nhân loại mới.
Giáo dục kitô giáo, như linh đạo của con tim mới, trở thành linh đạo của nền văn minh tình thương. Thêm một lần nữa, nó mặc khai mở cho chúng ta không phải là một sự sùng kính khô khan cằn cỗi, nhưng là sự hiện hữu của tình yêu kitô giáo trưởng thành và đích thực. Dựa trên gương mẫu và sự trợ giúp hữu hiệu của Đức Maria, “người nữ thiêng liêng”, “chuyên viên trong đời sống ân sủng”, “người nữ của trái tim mới” các kitô hữu được mời gọi để làm kinh nghiệm về cuộc sống của một tình yêu không làm cho tha hóa nhưng nhân bản hóa cách cao độ, nó làm cho họ cảm nếm được giá trị sung mãn nhân tính của họ.
Những yếu tố căn bản của linh đạo Maria này với trái tim mới có thể tóm tắt như sau:
1. Có cùng những cảm thức của trái tim Chúa Giêsu, với một đam mê vĩ đại cho tình yêu cuộc sống, không phân biệt và không ưa thích hơn bất cứ cách thức/loại tình yêu nào.
2. Có cùng những thái độ của Chúa Giêsu, với quyết tâm loan báo Vương Quốc và với sự đến trước của vương quốc ấy ngang qua những dấu chỉ cụ thể của việc đón nhận, của sự lắng nghe, của sự tha thứ và sẵn sàng giúp đỡ.
3. Có cùng một sự can đảm của Chúa Giêsu trong sự trao nộp vâng phục Chúa Cha, và trong việc đối diện với niềm đam mê cứu rỗi của Ngài.
4. Noi gương sự hiện hữu của Chúa Giêsu, Ngài đã sống sự độc thân vì Nước Trời, như dấu chỉ tình yêu phổ quát và hiện thực hóa tình mẫu tử và tình phụ tử thiêng liêng.
Ở đây muốn nói đến một đề xuất giáo dục mang tính ngôn sứ và nhìn xa trông rộng, gợi cảm xúc cho tất cả và không chỉ cho giới trẻ, về mặt sinh vật học và về phương diện văn hóa nó mở rộng ra viễn tượng kitô giáo được hiện thực và kiểm nghiệm trong chính kinh nghiệm cá nhân và trong những hành động trong đời sống thường nhật.
9.4. Kinh nghiệm văn hóa
Giáo dục kitô giáo không thể không có sức tác động trong cuộc sống tông đồ và trên hành vi xã hội-văn hóa. Kinh nghiệm sống trong tác động của Thần Khí của Đức Maria có một định hướng năng động ad extra (hướng ngoại), hướng về tha nhân, như Mẹ diễn tả trong cuộc thăm viếng người chị họ Elizabeth hoặc trong tiệc cưới ở Cana, hay trên đồi Canvê.
Nhưng cũng chính trong quyết tâm thực tiễn này, Đức Maria mời gọi chúng ta bước theo không phải chỉ để làm những gì Mẹ đã làm, nhưng trên hết là những gì Chúa Giêsu bảo phải làm (cf Ga 2,5). Nền giáo dục thực hành phải luôn luôn gìn giữ sự tác động mang tính qui kitô [lấy Đức Kitô làm trung tâm] và Giáo Hội này.
Đào luyện kitô giáo trở nên một phong cách sống đặt biệt, làm cho hữu hiệu hành động của các cá nhân kitô hữu và của toàn thể cộng đoàn giáo hội.
Rất nhiều lãnh vực hoặc cánh đồng của sứ mệnh mà nơi đó có thể diễn tả một nền giáo dục phong cách Maria đích thực: lãnh vực các bí tích, ngang qua môt phương pháp sư phạm của sự hoán cải mà nó biểu tỏ trong những cử chỉ cụ thể của công lý và của sự hòa thuận; trong lãnh vực Giáo Hội, trong khi đóng góp vào việc đối thoại, vào sự cảm thông và thấu hiểu, vào sự tha thứ và tình liên đới; trong lãnh vực đại kết, trong khi góp phần cộng tác với lời cầu nguyện hướng lên Mẹ Maria – Mẹ của sự hòa giải, để thăng tiến sự hiệp thông giữa các kitô hữu bằng cách thắng vượt rất nhiều hình thức của thành kiến, xét đoán về bản tính lịch sử và tâm lý; trong cánh đồng truyền giáo, trong khi khuyến khích, với sự trợ giúp của “Mẹ Maria - ngôi sao của việc Tin Mừng hóa” (EN n.82), sự quyết tâm để loan báo mầu nhiệm cứu độ của Đức Kitô cho toàn thế giới.
Một lối ra không thể thiếu được của nền giáo dục kitô giáo này là quyết tâm cho việc hội nhập văn hóa Maria, mà nó mang đến cho nhân loại hôm nay những nhân đức mạnh mẽ của Đức Maria , như là tình yêu mến và sự bảo vệ, chở che cuộc sống của những người yếu thế và nghèo hơn, là sự đón tiếp tế nhị, dịu dàng dành cho những người khác (vô danh, không ai biết đến, người ngoại kiều, những người già) và những người “khác” (những người nghiện ngập, những người bện tật, thiểu năng thể lý và trí não, những nạn nhân vô tội của nạn kỳ thị chủng tộc, tôn giáo, giới tính và điều kiện xã hội). Ở đây muốn đề cập đến việc kiến tạo nên một văn hóa của sự dịu dàng, của lòng xót thương và của hòa bình, để đấu tranh chống lại một nền văn hóa xem ra ngày càng cứng nhắc hơn, bất khoan dung, lạnh lùng, người khởi xướng và tổ chức những cuộc chiến tranh, gây căng thẳng, hận thù, sự chết, bạo lực và chia rẽ.
Giáo dục kitô giáo có ý nhắm tới sự đào luyện phong cách Maria.Như vậy, không chỉ hiệp thông với Thiên Chúa, nhưng còn hiệp thông và phục vụ anh chị em. Là một thực tại dựa vào gương mẫu của Đức Maria, muốn nhắm đến diễn tả với những hành động (chiêm niệm và hoạt động) hơn là với những lời nói suông. Và khi nào những lời nói được nói ra, nó mặc khải những yếu tố cơ bản và trọng tâm của cuộc sống và của hành động Xin vâng [Fiat], Tạ ơn [Magnificat],…
Chú thích
1 Pontificia Academia Mariana Internationalis, La Madre del Signore. Memoria, presenza, speranza. Città del Vaticano, PAMI 2000.
2 Cf Amato A, Gesù il Signore. Saggio di cristologia, Bologna, Dehoniane 19955, 466-489.
3 Cf Công thức tuyên xưng đức tin của GH Costantinopolitano (DS n. 150) và trên hết là định nghĩa huấn quyền dogmatica của công đồng Calcedonia (DS n. 301).
4 Cf Wolff H., Gesù, la maschialità esemplare. La figura di Gesù secondo la pscicologia del fondo, Brescia, Queriniana 1969.
5 Giovanni Paolo II,, Maria nel mistero di Cristo e della Chiesa, Città di Vaticano, LEV 1998, 133.
6 Ivi 134.
7 L.c.
8 Ivi 134-135.
9 Cf Amato A., Il Vangelo del Padre, Roma-Bologna, Dehoniane 19992.
10 Cf nota 2.
11 Testi mariani del primo millenio, Roma, Città Nuova 1989, vol.II, 231.
12 Ivi 232.
13 Sermo 233,3, 4; PL 38, 1114.
14 Gioavanni Paolo II, Lettera encilica Redemptoris Mater, n.17.
15 Guiton J., La Vergine Maria, Torino, Borla 1964, 82.
16 Cf Jeremias J., Teologia del Nuovo Testamento, I: La predicazione di Gesù, Brescia,Paideia 1972; Jungel E., Tratti fondamentali dell’annuncio di Gesù, in Id., Paolo e Gesù, Brescia,Paideia 1978, 90-312.
17 Cf Donaldson J., The Title Rabbi in the Gospel. Some Reflections on the Evidence of the Synoptics, in The Jewish Quarterly Review (1972-1973) 278-291.
18 Wegenast K., voce Didaskalía, in Dizionario dei Concetti Biblici del Nuovo Testamento, a cura di Coenen L. – Beyreyther E. – Bietenhard H., Bologna, Dehoniane 1976, 530.
19 Cf Shae G. S., The Question of the Authority of Jesus, in Novum Testamentum, 16 (19740 1-29.
20 Cf De Jonge M., Jesus as prophet and King in the Fourth Gospel, in Ephemerides Theologicae Lovanienses 49 (1973) 160-177.
21 Cf Dodd C.H., Le parabole del regno, Brescia, Paideia 1970; Jeremia J., Le parapole di Gesù, Brescia, Paidei 1973.
22 Cf Segalla G., Cristologia implicita nelleparabole di Gesù, in Teologia 1(1975) 297-337.
23 Cf Jeremias J., Gli agrapha di Gesù, Brescia, Paideia 1975, 89.
24 Per una sintesi della pedagogia di Gesù cf Commissione Teologico-Storico Del Grande Giubileo, Cristo Verbo del Padre, Cinisello B., San Paolo 1996, 67-92.
25 Direttorio Generale per la Catechesi, Città di Vaticano, LEV 1997, n.80.
26 Per questo cf Amato A., Maria e la Trinità, Cinisello B., San Paolo 2000.
27 Giovanni Paolo II, Lettera encilica Redemptoris Mater, n.8.
28 Ivi, n.12-19.
29 Cf Amato A., Il Vangelo del Padre, Roma, Dehoniane 19992.